Trong thế giới phương Tây ở nửa sau thế kỷ XX, Martin Heidegger (1889-1976) là một trong những nhà tư tưởng có ảnh hưởng sâu rộng nhất và cũng là người bị tranh cãi nhiều nhất: những người phản bác ông quyết liệt nói rằng họ không tiếp nhận được bất kỳ ý nghĩa khả dĩ nào trong các mệnh đề rắc rối và tối tăm mà ông đã nêu ra; những người có thiện chí hơn thì nói ông có lẽ không phải là một triết gia mà là một nhà thơ hoặc một nhà ngôn ngữ học có tài; còn những người ái mộ ông lại khẳng định: các tác phẩn triết học của ông là cột mốc đánh dấu chấm hết cho sự phát triển hơn hai ngàn năm của triết học mà mở đường cho dòng tư duy hoàn toàn mới và khác lạ, thậm chí có những học giả còn gọi Heidegger là "một ông vua thâm trầm của nền triết học Đức" trong thế kỷ XX.
Cũng như Jaspers, Sartre và nhiều nhà hiện sinh khác, thân phận con người luôn luôn đi về trong mạch tư duy của Heidegger. Trong khi Jaspers đặt con người vào những tình huống giới hạn và khẳng định sự thất bại cuối cùng gắn chặt với kiếp người như thể một tất yếu và định mệnh, Sartre nhìn thấy đời người là kinh tởm, đáng buồn nôn, thì Heidegger thấy con người sống trong dương thế như những kẻ bị bỏ rơi, bị ném vào thế giới xa lạ không có chốn nương thân nào khác ngoài sự nương tựa vào hoàn cảnh sống của chính mình.
Ngoài sự ưu tư hay nỗi lo âu là một cấu thành có trước tiên và thường trực của Hiện hữu, Heidegger cũng nối tiếp Kierkegaard phát biểu rằng: đối với con người, tâm trạng chủ đạo chính là sự sợ hãi. Heidegger cắt nghĩa: khi con người sợ hãi thì mọi vật hiện thể và ngay cả sự Hiện hữu của chính mình tan biến mất, và chính trong khoảnh khắc ấy, con người bắt gặp cái Hư không. Với "bước ngoặt" trong lộ trình tư duy, Heidegger đã chuyển từ chủ nghĩa duy tâm chủ quan phi lý tính của "thời kỳ Tồn tại-và-Thời gian" sang chủ nghĩa duy tâm khách quan mang tính chất thần bí. Chính vì "lãng quên Tồn tại" nên con người hiện đại càng ngày càng cảm thấy mình Không có quê hương và Không chốn nương thân trong thế giới... |